Ricardo Izecson dos Santos Leite (Sinh ngày 22 tháng 4 năm 1982), thường được biết đến với tên gọi là Ricardo Kaká hoặc Kaká, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil. Gian đoạn đỉnh cao sự nghiệp của anh là khi anh chơi ở vị trí tiền vệ tấn công tại AC Milan, giai đoạn được đánh dấu bằng những đường chuyền sáng tạo, khả năng ghi bàn và những pha rê bóng từ hàng tiền vệ, Kaká được nhiều người coi là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của mình.
Kaká là con trai của bà Simone Cristina dos Santos Leite, làm nghề giáo viên và ông Bosco Izecson Pereira Leite, một kỹ sư. Anh còn có một người em trai tên là Rodrigo. Năm Kaká lên 7 tuổi, gia đình anh chuyển đến São Paulo, trường học đã chọn anh vào đội tuyển mang tên "Alphaville Tennis Club," mà sau đó đội bóng đã giành chức vô địch tại một giải trong khu vực và Kaká là cầu thủ xuất sắc nhất giải này. Màn trình diễn tuyệt vời của anh đã được các tuyển trạch viên của São Paulo để mắt tới, sau đó họ đã kí hợp đồng đào tạo khi anh mới lên 9 tuổi.
Năm 12 tuổi, Kaká cùng đội trẻ của São Paulo tham dự giải đấu Reebok Cup tại Mỹ và anh đoạt giải cầu thủ xuất sắc nhất. Tuy vậy, anh vẫn tiếp tục học ở Batista cho đến năm 14 tuổi.
Năm 18 tuổi, một tai nạn không may khi đi bơi suýt chút nữa đã khiến Kaká phải giã từ bóng đá vì bị chấn thương cột sống có thể bị bại liệt. Nhưng sau đó anh đã bình phục hoàn toàn một cách khó tin. Anh cho rằng đó là nhờ ơn chúa trời, điều này cũng lý giải vì sao anh có một đức tin nhiệt thành đối với Chúa. Kaká cũng dâng một phần mười lợi tức của mình cho nhà thờ theo lời dạy của Kinh thánh.
São Paulo
Kaká bắt đầu sự nghiệp cấp câu lạc bộ với São Paulo vào năm 9 tuổi. Anh ký tiếp một hợp đồng vào năm 15 tuổi và giúp tuyển trẻ này đoạt Copa de Juvenil.
Kaká khởi đầu sự nghiệp trưởng thành vào tháng 1 năm 2001 và ghi 12 bàn trong 27 lần xuất trận, góp phần giúp São Paulo giành chức vô địch Torneio Rio đầu tiên và duy nhất cho đến nay. Anh ghi 10 bàn trong 22 trận ở mùa sau đó, và khả năng của anh nhanh chóng thu hút sự chú ý từ các câu lạc bộ châu Âu. Tổng cộng Kaká đã chơi 146 trận cho São Paulo và ghi 58 bàn.
A.C. Milan, CLB vừa giành chức vô địch Champions League năm 2003, đã mua anh với giá $8.5 triệu, Anh hoà nhập rất nhanh với câu lạc bộ mới và thi đấu cho AC Milan trong 6 mùa giải. Anh đã ghi 10 bàn trong 30 trận thi đấu trong mùa giải đầu tiên, và AC Milan giành Scudetto cùng Siêu cúp châu Âu. Kaká được chọn là một trong năm tiền vệ tiêu biểu trong mùa bóng 2004–05, thường chơi trong vai trò hộ công phía sau tiền đạo Andriy Shevchenko. Mùa giải 2004-2005, anh đã ghi 7 bàn trong 36 trận ở giải quốc nội cho AC Milan và đội bóng này đã về đích ở vị trí thứ hai sau Juventus. Dù AC Milan thua trong trận chung kết UEFA Champions League 2004-05 trước Liverpool F.C. ở loạt penalty, anh vẫn được chọn là tiền vệ xuất sắc nhất giải đấu, và đứng thứ 9 trong danh sách bầu chọn, với 19 phiếu, cho giải Quả bóng Vàng châu Âu năm 2005.
Trong mùa giải 2005–06, Kaká lần đầu tiên lập hat-trick trong cả giải quốc nội và châu Âu. Ngày 9 tháng 4 năm 2006, anh lập hat-trick vào lưới Chievo Verona. Cả ba bàn thắng đều diễn ra trong hiệp hai. Bảy tháng sau, anh lần đầu lập hat-trick ở Champions League trong chiến thắng 4–1 trước RSC Anderlecht. Làng bóng đá bắt đầu cho rằng anh sẽ trở thành một siêu sao.
Mùa giải 2006–07, Kaká đã trở thành nhân tố quan trọng bậc nhất trên hàng công của AC Milan và anh thường thi đấu ở cả vị trí tiền vệ và tiền đạo. Anh trở thành chân sút ghi nhiều bàn nhất tại UEFA Champions League 2006-07 với 10 bàn thắng, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của AC Milan trên mặt trận châu Âu.
Lần đầu tiên Kaká giành chức vô địch Champions League khi AC Milan đánh bại Liverpool 2–1 tại Athens ngày 23 tháng 5 năm 2007. Dù không ghi bàn thắng, anh đã giúp đội bóng có được một quả đá phạt dẫn tới bàn thắng đầu tiên của Filippo Inzaghi, và cũng góp công rất lớn ở bàn thắng thứ hai khi anh chuyền bóng thuận lợi để Pippo ghi bàn.